Trang

Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011

Kinh dich - di san sang tao cua Viet Nam



Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam?
Nguyễn Thiếu Dũng (06/07/2004)
Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam về Kinh Dịch, trong số đó có một công trình đặt lại vấn đề " tác quyền" của bộ Kinh này. Đó là học giả Nguyễn Thiếu Dũng, qua nhiều tìm tòi và nghiên cứu, ông đã nêu ra một số chứng lý để minh chứng rằng Kinh Dịch là sáng tạo của người Việt Nam. Với sự thận trọng cần thiết, Thanhnien Online xin giới thiệu bài viết sau đây của học giả Nguyễn Thiếu Dũng để rộng đường tham khảo.
Từ hai nghìn năm trước khi chúng ta bị phong kiến phương Bắc đô hộ, tổ tiên chúng ta ở thời đại Hùng Vương đã sáng tạo Kinh Dịch và dùng học thuyết này xây dựng nền tảng cơ bản cho văn hoá Việt Nam, nhờ thế trong suốt một nghìn năm lệ thuộc Trung Hoa, chúng ta vẫn đứng vững không bị đồng hoá như các dân tộc ở Hoa Nam.
Người Trung Hoa không biết từ thời điểm nào đã tiếp thu được Kinh Dịch của Việt Nam và họ cũng đã dùng Kinh Dịch để góp phần xây dựng nền tảng văn hoá của họ. Cho nên trong sinh hoạt, chúng ta có nhiều điểm giống họ, sau một nghìn năm mất chủ quyền, ta mất luôn tác quyền Kinh Dịch và những gì ta nghĩ, ta làm thấy giống Trung Hoa ta đều tự nhận mình học của Trung Hoa. Kỳ thật không phải như vậy. Người Trung Hoa rất trọng hướng Đông, khi họ tiếp khách, chủ nhà ngồi quay mặt về hướng Đông để tỏ chủ quyền. Trong thời lập quốc họ luôn luôn hướng về biển Đông, không kể Nam Kinh những Kinh đô danh tiếng của Trung Quốc đều lần lượt nối nhau tiến dần từ Tây Bắc sang Đông. Ngày nay những thành phố lớn của họ cũng đều tập trung ở bờ Đông. Thế mà trong Kinh Dịch họ phải công nhận hướng Nam là hướng văn minh, mặc dầu trong sử sách họ vẫn cho Hoa Nam là xứ man di. Mỗi khi cần bói Dịch họ đặt Kinh Dịch trên bàn thờ cho quay mặt về hướng Nam như hướng ngồi của Hoàng đế, rồi lạy bái cầu xin. Cử chỉ này cho thấy trong tiềm thức họ không quên nguồn gốc Kinh Dịch đến từ phương Nam, từ đất nước của các vua Hùng.
Trong vòng 60 năm trở lại đây một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã trực giác thấy rằng Kinh Dịch là tài sản của Việt Nam nhưng khi nói như thế họ vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc của truyền thuyết nên vẫn thừa nhận Phục Hy là nhân vật sáng tạo Kinh Dịch. Cho nên không tránh được mâu thuẫn.
Ngày nay chúng ta có đầy đủ chứng lý để nói ngay rằng Kinh Dịch là sản phẩm của Việt Nam, do chính tổ tiên người Việt sáng tạo, trên chính quê hương Việt Nam với nhiều bằng chứng vật thể còn lưu dấu trên đồ gốm Phùng Nguyên, đồ đồng Đông Sơn. Phục Hy, Văn Vương chưa từng làm ra Dịch.
1) Chứng lý vật thể: Kinh Dịch xuất hiện tại Việt Nam một nghìn năm trước khi có mặt tại Trung Quốc:
Tại di chỉ xóm Rền, thuộc nền Văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ đã đào được một chiếc nồi bằng đất nung (11, tr 642) trên có trang trí bốn băng hoa văn, mỗi băng nầy tương đương với một hào trong quẻ Dịch, theo phép đọc Hổ thể thì đây chính là hình khắc của quẻ Lôi Thuỷ Giải. Đây có thể xem là chứng tích xưa nhất trên toàn thế giới hiện chúng ta đang có được về Kinh Dịch. Chiếc nồi báu vật vô giá này mang trên mình nó lời cầu nguyện của tổ tiên chúng ta về cảnh mưa thuận gió hòa, mong sao được sống một đời an bình không có họa thuỷ tai. Lôi Thuỷ Giải là mong được giải nạn nước quá tràn ngập (lũ lụt), hay nước quá khô cạn (hạn hán). Niên đại của Văn hoá Phùng Nguyên được Hà Văn Tấn xác định: ”Phùng Nguyên và Xóm Rền đều là các di chỉ thuộc giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên. Hiện tại chưa có niên đại C14 cho giai đoạn này. Nhưng hiện nay chúng ta đã có một niên đại C14 của di chỉ Đồng Chỗ là di chỉ mà tôi cho là thuộc giai đoạn sớm của Văn hoá Phùng Nguyên: 3800 + 60 BP (Bln-3081) tức 1850 + 60BC (Hà Văn Tấn 1986: 181-182). Như vậy, các di chỉ Phùng Nguyên và Xóm Rền phải muộn hơn niên đại này. Nhưng Phùng Nguyên và Xóm Rền lại sớm hơn các niên đại C14 của lớp dưới di chỉ Đồng Đậu. Hiện nay lớp này có các niên đại: 3330 + 100BP (Bln-830), 3050 + 80BP (Bln-3711); 3015 + 65BP (HCMV 05/93); 3100 + 50BP (HCMV 06/93).
Nếu tin vào các niên đại C14 này thì giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên nằm vào khoảng giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 14 trước Công Nguyên... tương đương với văn hoá Thương ở Trung Quốc, thậm chí với giai đoạn sớm của văn hoá này (1, tr 578-579).
Về phía Trung Quốc, tuy theo truyền thuyết cho là Kinh Dịch do Phục Hy thời đại tối cổ Trung Quốc tạo ra nhưng trên thực tế không có chứng cứ nào để xác nhận chuyện này. Triết gia đầy uy tín của Trung Quốc Phùng Hữu Lan đã khẳng định trong Trung Quốc Triết học sử: ’’Suốt thời nhà Thương chưa có Bát Quái” (bản Hồng Kông 1950, tr 457). Chưa có Bát Quái nghĩa là chưa có Kinh Dịch. Quẻ Dịch xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc là trên sách Tả Truyện thời Xuân Thu-Chiến Quốc (772-221 BC). Vào thời kỳ này trên một số lớn các trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam đã có khắc hình quẻ Lôi Thuỷ Giải bằng 6 dải băng nghĩa là đầy đủ 6 hào. Vậy là rõ ràng Kinh Dịch đã có ở Việt Nam từ thời các Vua Hùng, so với chứng cứ cụ thể của Trung Quốc Kinh Dịch đã có ở nước ta trước Trung Quốc cả nghìn năm. Chuyện này chẳng khác chi chuyện tổ tiên ta đã biết trồng lúa nước nghìn năm trước Trung Hoa mà Trần Trọng Kim vẫn viết trong Việt Nam sử lược là người Trung Hoa có công dạy dân ta làm ruộng.
2) Chứng lý ngôn ngữ học: Một số tên quẻ Dịch là tên tiếng Việt không phải tiếng Trung Quốc:
Người ta thường gọi Kinh Dịch hay Kinh Diệc và cứ đinh ninh Diệc là do Dịch đọc chệch đi, kỳ thật tổ tiên ta nói Kinh Diệc và người Trung Hoa đã đọc chệch đi thành Dịch. Tiếng Trung Hoa Dịch còn có thể đọc là Diệc(Xem Khang Hy Từ Điển). Diệc là một loài chim nước, có họ với loài cò. Đây là những loài chim quen thuộc với đồng ruộng, với văn minh nông nghiệp, văn minh Văn Lang. Kinh Dịch là kết tinh của văn minh nông nghiệp, các nhà sáng tạo kinh Dịch Việt Nam lấy hình ảnh con diệc, con cò làm tiêu biểu cho hệ thống triết học của mình là hợp lý, nhưng người Trung Quốc muốn làm biến dạng cho khác đi, cho rằng chữ Dịch là hình ảnh con tích dịch - một loại thằn lằn hay biến đổi màu sắc theo thời gian chẳng thân thiết gần gũi gì với người nông dân cả. Điều này đã được ghi chú rất rõ trên trống đồng Đông Sơn về sau sẽ giải rõ.
Tên tám quẻ đơn Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài đều là tiếng Việt không phải là tiếng Trung Quốc. Các học giả Trung Hoa rất lúng túng khi giải nghĩa nguồn gốc tên những quẻ này vì họ cứ cho đó là tiếng Hoa nên tìm mãi vẫn không lý giải được. Ở đây chỉ dẫn một quẻ để minh chứng. Quẻ Ly không có nguồn gốc Trung Hoa, đây chỉ là chữ ghi âm tiếng Việt, một dạng chữ Nôm loại giả tá. Kinh Dịch bản thông hành ghi là Ly, âm Bắc Kinh đọc là Lĩ, nhưng bản Bạch Thư Chu Dịch đào được ở Mã Vương Đôi thì lại ghi là La, âm Bắc Kinh đọc là lúo (đọc như lủa). Rõ ràng đây là cách ghi của hai người Trung Hoa ở hai nơi hoặc hai thời điểm nghe người Việt Nam nói là quẻ Lửa, một người bèn ghi là lĩ (Ly), một người lại ghi là lủa (La). Còn người Việt Nam viết chữ Nôm Lửa thì lại dùng chữ lã làm âm. Cả ba âm Ly, La, Lã đều là cận âm với âm lửa, dùng để ghi âm âm lửa. Như vậy quẻ Ly không phải là quẻ có nghĩa là lìa hay là dựa như người Trung Hoa nghĩ mà chính là quẻ Lửa tức là quẻ Hoả như về sau họ đã dịch đúng nghĩa của nó.
3) Chứng lý đồ tượng: Kinh Dịch Trung Hoa thiếu một hình đồ trọng yếu, trong khi hình đồ này đang được cất giấu tại Việt Nam. Chứng tỏ Việt Nam mới là nước sáng tạo Kinh Dịch.
Đồ tượng và quái tượng (quẻ) là những hình tượng cơ bản cấu tạo nên Kinh Dịch. Cả hai đều có những giá trị bổ túc cho nhau để hình thành Kinh Dịch. Đọc Dịch mà chỉ chú trọng đến quẻ không chú ý đến Đồ là một thiếu sót đáng tiếc vì như thế là đã bỏ qua quá nửa phần tinh tuý của Dịch. Những ứng dụng quan trọng của Dịch đa phần đều căn cứ trên đồ, như thuyết trọng nam khinh nữ chi phối sâu đậm nhân sinh quan Trung Quốc thời kỳ phong kiến là ảnh hưởng Càn trọng Khôn khinh của Tiên Thiên Đồ, xem phong thuỷ, coi tử vi, học thuyết Độn Giáp, Thái Ất phát sinh ở Trung Hoa là do ảnh hưởng của Hậu Thiên Đồ. Y học, Võ thuật, Binh Thư Đồ trận lừng danh của Trung Quốc đều từ các Thiên Đồ mà ra. Theo thuyết Tam tài, cơ sở để xây nên toà lâu đài Kinh Dịch thì phải có ba Đồ chính là Tiên Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ và Trung Thiên Đồ nhưng suốt cả hai nghìn năm nay, Trung Quốc chỉ lưu hành hai Đồ Tiên Thiên và Hậu Thiên. Người Trung Hoa tuyệt nhiên không tìm ra Trung Thiên Đồ, cuối cùng họ đành bó tay, rồi thản nhiên kết luận, không cần có Trung Thiên Đồ. Đã có Tiên Thiên Đồ làm thể và Hậu Thiên Đồ làm dụng là đủ lắm rồi. Đây chính là khuyết điểm lớn nhất của Dịch học Trung Quốc mà cũng là cái may lớn nhất cho ta để từ chỗ sơ hở này ta tìm ra chứng lý quan trọng nhất, quyết định nhất để xác nhận tác quyền của Việt Nam. Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ, một Đồ quan trọng bậc nhất dùng làm la bàn để viết nên kinh văn các lời hào, Việt Nam lại cất giữ Trung Thiên Đồ! Vậy thì ai là chủ nhân Kinh Dịch? Câu hỏi đã được trả lời, bí ẩn hai nghìn năm đã được trưng ra ánh sáng.
Tác giả bài này có may mắn là đã thiết lập được Trung Thiên Đồ. Đồ này quẻ Càn ở phương Nam, quẻ Đoài ở phương Đông Nam, quẻ Tốn ở phương Đông, quẻ Khảm ở phương Đông Bắc, quẻ Ly ở phương Bắc, quẻ Cấn ở Tây Bắc, quẻ Chấn ở Tây và quẻ Khôn ở phương Tây Nam.
Đây chính là Đồ thứ ba trong số ba Thiên Đồ trọng yếu của Kinh Dịch mà người Trung Hoa không tìm ra. Nếu Tiên Thiên Đồ là Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ là Địa Đồ thì Trung Thiên Đồ là Nhân Đồ nghĩa là Đồ nói về con người. Có một danh hoạ tài ba nào chỉ trong một hình vẽ có thể biểu đạt ba hình thái khác nhau về con người? Điều này chưa ai làm được, ngay cả máy móc tân tiến nhất, hiện đại nhất cũng không thể làm việc này. Thế mà Trung Thiên Đồ cùng một lúc có thể diễn tả ba trạng thái khác nhau đó: Trung Thiên Đồ có mục đích nói về những vấn đề liên quan đến con người cho nên hình đồ Trung Thiên có thể biểu thị ba khía cạnh khác nhau của con người về mặt sinh lý, về mặt siêu lý và về mặt đạo lý:
a) Con người sinh lý: Quẻ Càn tượng cho bán cầu não phải, Quẻ Khôn tượng cho bán cầu não trái. Khi một người bị tai biến mạch máu não ở bán cầu phải thì tay chân bên trái thường bị liệt, ngược lại cũng thế. Vì Càn thuộc dương nên liên quan đến tay trái gồm hai quẻ Chấn dương và Cấn dương và vì tay trái đã dương thì chân trái lại thuộc về âm nên chân có quẻ Ly âm. Trái lại, bán cầu não trái Khôn âm sẽ ảnh hưởng đến tay phải Trạch âm và Tốn âm cùng với chân Khảm dương. Điều này tương đồng với kết quả thực nghiệm của Leokadia Podhorecka (1986), trình bày năm 1986 tại hội nghị quốc tế về Trường sinh học tại Zagrev về tính bất đối xứng phải - trái trong nhân thể (2, tr 117). Hình đồ cũng thể hiện được y lý Đông Phương cho rằng Thiên khí tả truyền: Dương khí đi từ bên phải (Càn dương) sang bên trái (Cấn, Chấn dương), Địa khí hữu truyền: Âm khí đi từ bên trái (Khôn âm) sang bên phải (Đoài, Tốn âm). Con người muốn sống cần phải thở (Càn phế, chủ khí), sau đó phải được nuôi dưỡng bằng thức ăn (Khôn, tỳ vị). Con người khoẻ mạnh khi tâm (Ly) giao hoà với thận (Khảm), nếu tâm thận bất giao sẽ sinh tật bệnh, vị y tổ Việt Nam Lê Hữu Trác đã phát triển học thuyết này để chữa bệnh rất hiệu quả.
b) Con người siêu lý: Theo trãi nghiệm của các hành giả Yoga hoặc Khí công, Thiền, thì cơ thể có bảy trung tâm năng lượng tác động chi phối sự sống của con người, gọi là bảy đại huyệt hay là bảy luân xa. Trung Thiên Đồ chính là biểu đồ hệ thống bảy luân xa đó, theo thứ tự từ dưới lên: luân xa 1 là Hoả xà Kundalinê chính là quẻ Ly hoả, Luân xa 2 là Mệnh môn quan chính là quẻ Khảm (thận thuỷ), Luân xa 3 là Đơn điền Ngũ Hành Sơn chính là quẻ Cấn sơn, Luân xa 4 là Luân xa tâm gồm hai quẻ Tốn (tâm âm) và Chấn (tâm dương), luân xa 5 là trung tâm Ấn đường chính là quẻ Đoài, luân xa 6 nằm ở chân mi tóc hay huyệt Thượng tinh mà Đạo giáo thường gọi là Kim mẫu chính là quẻ Khôn (Địa mẫu), Luân xa 7 là huyệt Thiên môn Bách hội chính là quẻ Càn Thiên.
c) Con người đạo lý: Trung Thiên Đồ còn biểu đạt một mẫu người đạo lý tâm linh: quẻ Sơn Tượng cho tính người tham lam muốn tích luỹ như núi (Tham), quẻ Ly Hoả tượng cho người có tính sân như lửa (Sân), quẻ Khảm Thuỷ tượng cho người có tính si như nước đổ dồn về chỗ thấp (Si), ba thói xấu đó sẽ dẫn con người đến chỗ ác tượng trưng bằng quẻ Tốn (tâm âm, nhục tâm, vọng tâm), (như thuyết Tam Độc của Phật Giáo). Nhưng nếu con người biết phát triển tâm từ bi như tình yêu của mẹ tượng bằng quẻ Khôn (Địa Mẫu - Từ Bi), khiến tâm thanh tịnh an lạc tượng bằng quẻ Đoài (Vui, Hỉ), lúc nào cũng sẵn lòng cảm thông tha thứ cho người, tượng bằng quẻ Càn (Xả) thì con người sẽ đạt được cõi phúc, tượng bằng quẻ Chấn (Tâm dương, Chân tâm, Đạo tâm), (như thuyết Tứ vô lượng tâm của Phật giáo).
4) Phát hiện Trung Thiên Đồ trong truyền thuyết
Kinh Dịch có tám quẻ đơn: Càn còn gọi là Thiên có tượng là trời, là vua, là cha. Khôn còn gọi là Địa có tượng là đất, là hoàng hậu, là mẹ. Khảm còn gọi là Thuỷ có tượng là nước, là cá (ngư). Ly còn gọi là Hoả có tượng là lửa. Cấn còn gọi là Sơn có tượng là núi. Đoài còn gọi là Trạch có tượng là đầm (hồ). Chấn còn gọi là Lôi có tượng là sấm, là con trai trưởng. Tốn còn gọi là Phong có tuợng là gió, là cây (mộc).
Khi tám quẻ đơn chồng lên nhau ta được 64 quẻ kép, nhưng khi tám quẻ đơn được đặt trên vòng tròn ta sẽ được ba thiên đồ căn bản: Tiên Thiên Đồ thường được người Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Đồ Phục Hy vì cho là do Phục Hy chế ra, Hậu Thiên Đồ cũng được người Trung Hoa gọi là Hậu Thiên Đồ Văn Vương vì cho là do Văn Vương thiết lập, ở đây chúng tôi chỉ gọi là Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ vì đã chứng minh được Kinh Dịch do người Việt Nam sáng chế nên Phục Hy, Văn Vương chẳng can dự gì vào việc sáng tạo các thiên đồ. Dịch đồ thứ ba chính là Trung Thiên Đồ đã được tổ tiên Việt Nam cất giấu trong truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ.
Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ không chỉ là một huyền sử về nguồn gốc dân tộc "Con Rồng cháu Tiên", một thông điệp về tình đoàn kết, nghĩa yêu thương giữa các dân tộc anh em, đồng bào mà còn chứa đựng một thông tin về di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam đã được tổ tiên chúng ta bí mật cất giữ trong đó: tôi muốn nói đến Kinh Dịch đứa con lưu lạc của Việt Nam đã được Trung Quốc nuôi dưỡng và đã thành danh ở đó. Nếu chúng ta kết hợp những thông tin nằm rải rác trong các truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, truyện Hồ tinh, Mộc tinh, Ngư tinh ta sẽ thiết lập được một Trung Thiên Đồ mà người Trung Quốc chưa hề biết đến. Theo Kinh Dịch, Lạc Long Quân thường được nhân dân gọi là Bố mỗi khi có việc cần giúp đỡ có thể ký hiệu bằng quẻ Càn có tượng là vua, là cha. Lạc Long Quân thường sống ở Thuỷ phủ ký hiệu là quẻ Khảm có tượng là nước. Lạc Long Quân diệt được Hồ tinh là con cáo chín đuôi sống hơn ngàn năm ở đầm Xác Cáo nay là Hồ Tây, sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Đoài tức quẻ Trạch có tượng là đầm.
Đất Phong Châu thời Thượng cổ có cây Chiên đàn sống hàng ngàn năm, chim hạc thường đến đậu ở đấy nên nơi đó còn gọi là đất Bạch Hạc (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), lâu ngày cây hoá thành yêu tinh dân gọi là thần xương cuồng, Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ra sức đánh đuổi, cứu dân thoát khỏi sự bức hại của xương cuồng. Sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Tốn còn gọi là quẻ Phong có tượng là mộc. Lạc Long Quân cũng có công diệt được ngư tinh, con yêu ngư xà ăn thịt người, chuyện này cũng thuộc quẻ Khảm ký hiệu ở trên. Truyền thuyết thường nói chung là Lạc Long Quân (quẻ Càn) diệt hồ tinh (quẻ Đoài), diệt mộc tinh (quẻ Tốn), diệt ngư tinh (quẻ Khảm) để cứu dân, từ đó ta đã có được một vế của Trung Thiên Đồ: Càn - Đoài - Tốn - Khảm. Theo truyền thuyết Lạc Long Quân nói với Âu Cơ (được tôn xưng là Quốc mẫu, là mẹ, ký hiệu là quẻ Khôn): (1, tr 30). Như thế là truyền thuyết đã xác định rất rõ tính cách tương phản giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Long Quân thuộc quẻ Khảm (Thuỷ) thì Âu Cơ thuộc quẻ Ly (Hoả). Truyền thuyết kể tiếp: "Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang". Lên Phong Châu là lên núi ký hiệu là quẻ Cấn có tượng là núi, tôn người con cả ký hiệu là quẻ Chấn vì Chấn có tượng người con trưởng. Ta lại có thêm vế thứ hai của Trung Thiên Đồ: Ly - Cấn - Chấn - Khôn. Đến đây ta đã khai quật được Trung Thiên Đồ từ lớp ngôn ngữ truyền thuyết, các quẻ xếp theo thứ tự Càn - Đoài - Tốn - Khảm - Ly - Cấn - Chấn - Khôn theo chiều ngược kim đồng hồ.
5) Vai trò Trung Thiên Đồ trong việc hình thành văn bản Kinh Dịch:
a) Bố cục Kinh Dịch: Kinh Dịch có 64 quẻ, 30 quẻ đầu thuộc về thượng kinh, 32 quẻ sau thuộc về hạ kinh. Nhìn vào cách sắp đặt vị trí các quẻ Dịch trong bản kinh văn thông hành ta không thể không nghĩ rằng các nhà làm Dịch đã sử dụng Trung Thiên Đồ như là la bàn để phân bố các quẻ. Mở đầu kinh văn là hai quẻ Càn số 1, Khôn số 2 đúng như vị trí Càn Khôn đứng bên nhau trên Trung Thiên Đồ, cuối thượng kinh là hai quẻ Khảm số 29 và Ly số 30 đúng như vị trí Khảm Ly dưới Trung Thiên Đồ. Mở đầu hạ kinh là hai quẻ Trạch Sơn Hàm số 31 và quẻ Lôi Phong Hằng số 32 đúng như vị trí quẻ Đoài Trạch đối qua tâm với quẻ Cấn Sơn tạo thành quẻ Trạch Sơn Hàm, quẻ Chấn Lôi đối qua tâm với quẻ Tốn Phong tạo thành quẻ Lôi Phong Hằng nằm giữa Trung Thiên Đồ. Cuối hạ kinh là hai quẻ Thuỷ Hoả Ký Tế số 63 và Hoả Thuỷ Vị Tế số 64 đúng như vị trí quẻ Khảm Thuỷ giao hoán với quẻ Ly Hoả tạo thành.
Khác hẳn với Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng đối nhau qua tâm, biểu hiện trạng thái phân ly, trên Trung Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng gần nhau từng đôi một biểu hiện trạng thái giao hội. Ở tự nhiên mọi vật có thể đối nghịch, vừa tương phản vừa tương thành. Nhưng ở con người thì khác, con người là một chỉnh thể, một thái cực, một toàn đồ âm dương phải tương hội điều hoà, nếu một bên thiên thắng con người sẽ bất ổn, phát sinh bệnh tật.
b) Đặt tên cho quẻ Dịch: Nhiều nhà chú giải Kinh Dịch Trung Quốc khi giải thích nghĩa chữ giao của hào thượng cửu quẻ Thiên Hoả Đồng nhân số 13 "Đồng nhân vu giao" thường chỉ dừng lại ở vấn đề chính trị xã hội nên hiểu giao theo một nghĩa rất hẹp, họ cho giao là vùng đất ngoại ô kinh thành nếu muốn đồng thì nên tìm người ở xa mà liên hiệp. Hiểu như vậy thì không sát nghĩa và không đúng với lập ý của người làm ra Kinh Dịch. Có lẽ vì người Trung Quốc trong tay không có la bàn Trung Thiên Đồ là đồ đã bị Tổ tiên người Việt Nam cất giấu rất kỹ không truyền ra ngoài nên không hiểu rằng giao tức là giao hội, khi hoả xà Kundalinê từ lâu cuộn mình ở đốt xương cùng có đủ điều kiện lên hợp nhất với thần Vishnou cư trú ở huyệt Thiên môn nghĩa là khi luân xa số 1 là quẻ Ly Hoả hoà nhập với luân xa số 7 là quẻ Càn Thiên là lúc con người đạt đến trạng thái toàn thức, hạnh phúc hoàn hảo nhất, con người đạt đến mức độ giao hội cùng vũ trụ, tha nhân, vì thế mới đặt tên cho quẻ này là Thiên Hoả Đồng nhân. Giao nằm ở hào thượng cửu (theo Dịch lý thuộc tài thiên), tức là ở mức độ đồng nhân cao nhất, mức độ hoà đồng siêu việt, Nếu hiểu giao như nghĩa các chữ Đông giao (ngoại ô phía đông), Nam giao (ngoại ô phía Nam) thì không phù hợp với cấu trúc quẻ Dịch, hiểu như vậy là mặc nhiên nhận giao thuộc về đất phải nằm ở hào hai, tài Địa. Cũng như quẻ Đồng Nhân, các Dịch học gia Trung Quốc cũng bị hạn chế khi hiểu quẻ Đại Hữu chỉ là sở hữu tài sản vật chất họ không ngờ rằng Đại Hữu là sở hữu tài sản tinh thần vĩ đại, quẻ này chính là ghi lại thành tựu một quá trình công phu trãi nghiệm của hành giả đã hợp nhất với vũ trụ, mà mỗi hào mô tả thành quả một chặng đường liên tục từ hạ đẳng công phu đến thượng đẳng công phu.
c) Đọc lại Kinh Dịch: Nhờ có Trung Thiên Đồ ta có thể đọc lại Kinh Dịch một cách chính xác hơn, điều này nghe có vẽ nghịch lý vì ta làm sao thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa hơn người Trung Hoa được, nhưng vì ta có Trung Thiên Đồ là la bàn tổ tiên ta dựa vào đấy để viết các lời hào nên chúng ta có cách đọc thuận lợi hơn. Ở đây tôi chỉ xin dẫn ra một thí dụ để minh chứng. Kinh Dịch có ba quẻ nói đến Tây Nam, quẻ Giải: "Lợi Tây Nam", quẻ Kiển: "Lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc”, quẻ Khôn: "Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng”. Căn cứ vào Hậu Thiên Đồ, quẻ Khôn (đất) nằm ở hướng Tây Nam, quẻ Cấn (núi) nằm ở hướng Đông Bắc, Vương Bật, người thời Tam Quốc, trong Chu Dịch chú giải thích như sau: ”Tây Nam là đất bằng, Đông Bắc là núi non. Từ chỗ khó mà đi đến chỗ bằng, cho nên khó khăn sẽ hết, từ chỗ khó mà đi lên núi, thì sẽ cùng đường”, Khổng Dĩnh Đạt trong Chu Dịch chính nghĩa viết: ”Tây Nam thuận vị là hướng bằng phẳng dễ đi, Đông Bắc hiểm vị là chỗ trắc trở khó khăn. Đường đi lắm trắc trở, tất cả đi đến chỗ bằng dễ đi thì khó khăn sẽ hết, trái lại nếu đi vào chỗ hiểm thì càng bế tắc cùng đường. Đi ở phải hợp lý vậy”, (3, tr 846).Trương Thiện Văn trong Từ điển Chu Dịch giải thích: ”Lợi cho việc đi về đất bằng Tây Nam, không lợi cho việc đi về phía núi non đông bắc. Tây nam tượng trưng cho đất bằng, Đông bắc tượng trưng cho núi non. Đây nói ở thời kiển nạn mọi hành động đều phải tránh khó khăn hiểm trở, phải hướng về phía bằng phẳng thì mới có thể vượt qua kiển nạn,vì vậy nói lợi tây nam, bất lợi đông bắc”, (3, tr 907). Nói chung lời giải thích của đa số Dịch gia Trung Quốc đều dựa vào vị trí các quẻ trên Hậu Thiên Đồ và đều cho núi là trở ngại, nhưng giải như vậy không thể khớp với Dịch lý, quẻ Kiển tức là quẻ Thuỷ Sơn Kiển, hình tượng nước ngập núi, trận đại hồng thuỷ. Vậy núi chỉ là trở ngại thứ yếu. Sự thật đối với người cổ đại núi tuy có khổ ải hơn nơi bằng phẳng nhưng không phải là trở ngại đáng kể. Đối với người cổ đại núi là nhà, hang hốc là nhà. Núi che chở cho họ, cung cấp thực phẩm, đùm bọc nuôi dưỡng họ. Nói cho cùng với tượng quẻ như vậy, người ta không lo về núi mà nỗi lo triền miên chính là nước. Suốt thời cổ đại, nhất là ở Việt nam, chiến tranh bất tận là chiến cuộc giữa NGƯỜI với NƯỚC. Con người khơi dòng lấy đất canh tác, đẩy lùi biển để giành đất sống. Khi con người thắng biển nghĩa là khi Sơn tinh thắng Thuỷ tinh, Kiển nạn được giải. Vấn đề lật ngược, quẻ Thuỷ Sơn Kiển lật thành quẻ Sơn Thuỷ Mông, Thoán từ ca ngợi chiến công thần thánh này là Lợi Trinh (thắng lợi bền chặc).
Ở Hậu Thiên Đồ cũng như ở Trung Thiên Đồ, quẻ Khôn cùng ở vị trí Tây Nam nhưng ở vị trí Đông Bắc thì quẻ của hai đồ hoàn toàn ngược nhau. Nếu Hậu Thiên Đồ là quẻ Cấn (núi) thì ở Trung Thiên Đồ lại là quẻ Khảm (nước). Ta thấy rõ muốn hiểu nghĩa lời hào của ba quẻ đó không thể dựa vào vị trí quẻ trên Hậu Thiên Đồ, vì không chính xác. Chỉ có thể dựa vào vị trí quẻ trên Trung Thiên Đồ mới làm sáng tỏ được nghĩa quẻ. Con người không ngại núi mà chỉ e sông, e biển. Câu lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc không phù hợp với thực tiển Trung Quốc vì con đường sống của họ luôn dịch chuyển từ Tây Bắc sang Đông Bắc, hành trình các kinh đô của các triều đại Trung Hoa thường đi từ núi ra biển:Tây An - Trường An - Lạc Dương - Khai Phong - Bắc Kinh. Đó là hành trình ngược với lời hào ba quẻ: Giải, Khôn, Kiển.
Trong khi đó lời hào ba quẻ trên lại hoàn toàn phù hợp với thực tiển Việt Nam. Đối với Việt Nam, Đông Bắc mới thực là bất lợi, đó là biển cả là cửa ngỏ cho phong kiến phương bắc xâm lược. Việt Nam chỉ có con đường sống là mở nước về phương Nam và Tây nam. Lịch sử Việt Nam đã chứng thực lời đó, đã hai lần chúng ta tiến về hướng Tây Nam, đợt đầu tiến về đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, đợt sau tiến về vựa lúa châu thổ sông Cửu Long. Lời hào trên vẫn còn là lời dự báo ứng nghiệm với Việt Nam ngày nay: Tây Nam đắc bằng khi gia nhập khối Đông Nam Á, con đường Tây nam đang ở thế thuận lợi.
6/ Kết luận:
Chúng ta còn nhiều chứng lý từ vật thể đến phi vật thể, từ ngôn ngữ đến văn bản, nhưng mấu chốt hơn hết để chứng minh Kinh Dịch do Tổ tiên người Việt Nam sáng tạo vẫn là vai trò của Trung Thiên Đồ. Khi một người muốn chứng minh một vật là sản phẩm do chính mình đúc ra thì ngườI đó phải trưng ra khuôn đúc, ở đây cũng vậy Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ giống như không có khuôn đúc thì làm sao bảo rằng Trung Quốc đã sáng chế ra Kinh Dịch. Thật ra Trung Quốc chỉ có công phát huy Kinh Dịch nhờ đó Kinh Dịch mới có bộ mặt vĩ đại như ngày nay, cũng như họ đã làm rạng rỡ cho Thiền nhưng không ai có thể quên Thiền có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn Độ. Đã đến lúc cái gì của César phải trả lại cho César. Khi chúng ta nhận ra rằng Kinh Dịch là di sản của Tổ tiên ta sáng tạo, ta sẽ hiểu được do đâu ta cũng cùng giải đất với các dân tộc vùng Hoa Nam, núi liền núi, sông liền sông mà họ bị đồng hoá còn chúng ta thì không. Kinh Dịch chính là cuốn Cổ văn hoá sử của Việt Nam mà Tổ tiên chúng ta còn lưu lại ngày nay, tuy có bị sửa đổi nhuận sắc nhiều lần nhưng những vết tích của nền văn minh thời các vua Hùng dựng nước vẫn còn đậm nét trong nhiều quẻ Dịch.
Người sáng tạo Kinh Dịch đã dựa vào Trung Thiên Đồ để bố cục vị trí các quẻ đúng như bản thông hành hiện đang phổ biến. Các Dịch học gia Trung Quốc căn cứ vào vị trí các quẻ theo Hậu Thiên Đồ nên có nhiều câu trong Kinh văn bị họ giảng sai với ý nguyên tác, muốn giảng cho đúng phải dựa vào Trung Thiên Đồ, không thể làm khác được.
Trung Thiên Đồ giữ một vị trí quan trọng và quyết định như vậy đã được Tổ tiên Việt Nam cất giấu rất kĩ trong truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ. Từ truyền thuyết này có thể tìm lại Trung Thiên Đồ. Trung Thiên Đồ còn được khắc ghi cẩn trọng trên Trống đồng Đông Sơn có điều kiện tác giả bài này sẽ công bố sau.
Chúng tôi còn nhiều minh chứng khác để kiện toàn chứng lý cho kỳ án này. Không còn nghi ngờ gì nữa, Kinh Dịch chính là sáng tạo của Tổ tiên Việt Nam. Muốn hiểu đúng bản chất văn hoá Việt Nam không thể không khảo sát Kinh Dịch, như là sáng tạo của Việt Nam.
Nguyễn Thiếu Dũng

Sách tham khảo:
* Vũ Quỳnh - Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái, Văn học, Hà Nội, 1990.
* Nguyễn Hoàng Phương: Tích hợp đa văn hoá Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai, Giáo Dục, Hà Nội, 1995.
* Trương Thiện Văn: Từ Điển Chu Dịch, bản dịch, Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 1997.
* Nguyễn Thiếu Dũng: Một phát hiện mới về Kinh Dịch: Trung Thiên Đồ,Thông tin khoa học ĐH DL Duy Tân tháng 05/1999
* Nguyễn Thiếu Dũng: Con đường Tây Nam, Thông tin khoa học Đại Học DL Duy Tân, tháng11/1999.
* Nguyễn Thiếu Dũng: Chúng ta có một di sản hàng đầu thế giới Báo Lao Động, Trang miền Trung & Tây Nguyên số 32/99, ngày 13/12/1999.
* Nguyễn Thiếu Dũng: Văn Lang cội nguồn Kinh Dịch, Khoa học & phát triển số 67, năm 2000.
* Nguyễn Thiếu Dũng: Những con số ở vùng đất Tổ, Xưa & Nay,73b, tháng 03/2000.
* Hồ Trung Tú: Dịch học sáng tạo của người Việt cổ, Tia Sáng, Xuân Nhâm Ngọ 2000.
* Nguyễn Thiếu Dũng: Nhìn qua chữ số, Khoa học & phát triển số 74, tháng 3/01.
* Hà Văn Tấn: Theo dấu các văn hoá cổ, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1998.

Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2011

NGÀN NĂM THƯƠNG NHỚ ĐẤT THĂNG LONG




"Ai về ải Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ thủa mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long"
(Huỳnh Văn Nghệ)


Thăng Long - Hà Nội miền đất cổ
Vùng đất Thăng - Long Hà Nội được hình thành cùng với lịch sử tiến hóa của vỏ trái đất, kinh qua nhiều giai đoạn tiến hóa khác nhau, trải bao lần biển tiến - biển lùi, bao phen "bãi bể nương dâu"…để có được "hình hài" như ngày nay.
Theo "Thần núi Rốn Rồng - thánh sông Tô Lịch" trích trong cuốn "Kể chuyện ngàn xưa Thăng Long - Hà Nội" của Nhà xuất bản Hà Nội xuất bản và phát hành nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội thì, "vào khoảng đầu Công nguyên, một nhóm người Việt cổ đi dọc dòng sông Mẹ, tìm chỗ định cư giữa đồng bằng lầy lội. Từ xa đã thấy núi Rốn Rồng nhô cao, lại có một nhánh sông Mẹ uốn quanh chân núi, vừa tiện đường thủy để đi lại vừa  có nguồn nước mát để ăn uống, họ quyết định lập làng". Người già làng đầu tiên đứng đầu "hương Long Đỗ" họ Tô tên Lịch. Là người nhân hậu, tử tế, nên già được dân hương tôn kính. Đến khi "trăm tuổi" thường hiển linh phù hộ dân làng. Dòng sông quanh co uốn khúc quanh hương Long Đỗ được gọi  là sông Tô Lịch. Đất lành chim đậu, thời gian thấm thoắt đưa thoi, người đến sinh cơ lập nghiệp bên dòng sông Tô mỗi ngày mỗi đông.    
Năm 544, sau khi dựng cờ khởi nghĩa đánh thắng quân xâm lược nhà Lương, Lý Bí tự xưng là Nam Việt Đế, đặt niên hiệu là "Thiên Đức" và đặt tên nước là Vạn Xuân. Năm sau,  Lý Nam Đế cho xây dựng một tòa thành bên dòng sông Tô Lịch gọi là " Tô Lịch Giang thành". Tuy tòa thành được dựng chủ yếu chỉ bằng gỗ, và tre nứa, song, đó là tòa thành kiên cố đầu tiên của cư dân Thăng Long xa xưa. Lý Nam Đế cũng chính là người đầu tiên trong lịch sử chọn mảnh đất ven dòng Tô trong xanh để xây dựng trung tâm quyền lực đầu tiên của nước Việt.

Sử sách ghi chép lại thì, vào năm, 824 Lý Nguyên Gia đắp một cái thành nhỏ gọi là La Thành bên dòng Tô Lịch. Năm 866 Cao Biền (người nhà Đường sang cai quản Giao Châu) đã cho đắp lại thành lớn hơn và gọi là thành Đại La. Bốn mặt thành dài 1.982,5 trượng (6,6km); cao 2,6 trượng (8,67m). Bên ngoài đắp một con đê dài 2.125,8 trượng (7,09 km) bao bọc thành…Bên trong Cao Biền cho làm 55 lầu vọng địch, 6 úng môn, 3 hào nước, 34 đường đi; dựng 400.000 nóc nhà cho dân ở. Thành Đại La do Cao Biền quy hoạch chính là địa điểm mà vị vua đầu triều nhà Lý nhắm tới trong kế hoạch thiên đô của mình.

Thăng Long - Hà Nội "nơi thắng địa"
Vị vua sáng lập vương triều Lý sau khi đăng quang, đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của kinh đô - đầu não chính trị - đối với vận mệnh của đất nước nói chung và với vương triều nói riêng. Ngài cho rằng: Hoa Lư - kinh đô của hai triều vua Đinh và vua Lê đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nền độc lập, tự chủ của dân tộc trong buổi đầu dựng nước. Đã góp phần "kháng Tống bình Chiêm" thắng lợi, dẹp yên cát cứ, thu non sông về một mối. Nay, vận nước đã chuyển, trước yêu cầu mới của lịch sử thì, "thành Hoa Lư ẩm thấp, chật hẹp", không hội đủ điều kiện để phát triển kinh tế, văn hóa, bang giao với các nước. Điều đó khiến nhà vua ngày đêm trăn trở. Quyết định tìm đất định đô mới cứ lớn dần, chín dần, cho đến một ngày nhà vua ban "Chiếu dời đô". Việc thiên đô ra thành Đại La, mảnh đất nằm giữa ba con sông gần quê hương Cổ Pháp của Ngài là một sự lựa chọn sáng suốt của vị vua anh minh, có ý nghĩa lớn lao trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Sử gia Ngô Thì Sĩ trong "Đại Việt sử ký tiền biên" đánh giá rất cao: "Đất Long Đỗ là nơi Cao Biền đóng đô ở đấy, núi Tản Viên chống vững một cõi, sông Phú Lương như hào trời sinh ra, ngàn dặm bằng phẳng trăm họ giàu có, phía Tây thông với Sơn Tây, Tuyên Hưng, phía Bắc thấu đến Ninh Sóc, Kinh Bắc. Miền đông nam thì vận chuyển bằng thuyền, miền Cần Xương thì liên lạc bằng Trạm, là nơi trung tâm của nước, bốn phương chầu về, núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiểm, rộng mà dài, có thể làm cho nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền. Hình thế nước Việt thật không nơi nào hơn được nơi này" và "Lý Thái tổ lên ngôi, chưa vội làm việc khác, mà trước tiên mưu tính việc định đô…xét về sự quyết đoán sáng suốt, mưu kế anh hùng, thực những vua tầm thường không thể theo kịp".
Chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long


Ý tưởng thiên đô là một quyết định quan trọng bậc nhất trong cuộc đời của Đức Thái Tổ Lý Công Uẩn. Đó là một yêu cầu tất yếu của lịch sử, phù hợp với lợi ích của dân tộc. Ngài tìm nơi định đô bởi muốn tìm "kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời", để "mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu" và thành Đại La đô cũ của Cao Vương chính là "chốn hội tụ của bốn phương", là "trung tâm" của trời đất. Thuở đó, Thăng Long được giới hạn bởi ba con sông. Phía Đông là sông Hồng, phía Bắc là sông Tô và phía Nam là sông Kim Ngưu với hàng trăm hồ lớn nhỏ bao bọc. Khu Hoàng thành được nhà Lý quy hoạch gần hồ Tây, với tám điện ba cung. Đó là trung tâm quyền lực chính trị, cũng là nơi sinh hoạt của hoàng gia. Triều Lý và các triều Trần, Lê…đã quan tâm xây dựng, kiến thiết kinh đô Thăng Long một cách khoa học, bài bản. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu thì, "vào thời điểm cách ngày nay 1000 năm mà một vị vua Việt Nam đã xây dựng thành lũy như vậy có thể sánh ngang các vị vua của Châu Âu cùng thời".  
Dưới thời Lý - Trần - Lê…Thăng Long trải bao phen binh lửa, vẫn vững vàng ngẩng cao đầu, vẫn hiên ngang và kiên cường cùng dân tộc "phá Tống, bình Nguyên, diệt Minh, đạp Thanh" làm nên những chiến thắng rực rỡ. Năm tháng qua đi, các triều vua nối tiếp nhau trị vì, Thăng Long vẫn được chọn là kinh đô của cả nước. "Nơi thắng địa này" ngày một phát triển, mở mang, sầm uất, xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, ngoại giao… của dân tộc.
 Thế kỷ thứ XVII, Thăng Long - Kẻ Chợ còn là nơi giao lưu buôn bán tấp nập, có quan hệ ngoại thương với nhiều quốc gia trong khu vực và thế gới. Năm 1831, Minh Mạng (Nhà Nguyễn) khi lên ngôi đã đổi tên Thăng Long thành Hà Nội (thành phố trong sông). Thời Pháp thuộc, người Pháp coi Hà Nội là một trong những trung tâm đầu não chỉ huy của chính quyền bảo hộ và đã tiến hành xây dựng một số khu vực ở Hà Nội…

Thăng Long - Hà Nội thời đại Hồ Chí Minh.

Kể từ thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại vườn hoa Ba Đình, một lần nữa Thăng Long xưa - Hà Nội nay  khẳng định được vai trò lịch sử của mình trong tiến trình phát triển của dân tộc.

Lịch sử 1000 năm hình thành và phát triển của Thăng Long Hà Nội đã trải nhiều thăng trầm, có lúc rực rỡ huy hoàng, có lúc trầm lắng đau thương. Do nhãn quan chính trị của người đứng đầu đất nước nên, mảnh đất này, khi mang tên Thăng Long, khi Đông Đô, Đông Quan, khi Hà Nội. Có thời kỳ không giữ vị trí kinh đô. Song khí phách Thăng Long, cốt cách Thăng Long vẫn trường tồn với thời gian, rạng rỡ từng trang sử. Và điều đó càng được soi tỏ, được chứng minh một cách  hùng hồn trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó là: Mùa đông năm 1946 - Hà Nội "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh"! Đó là: Trận "Điện Biên Phủ trên không" quyết liệt diễn ra trên bầu trời Hà Nội vào mùa đông năm 1972, đã góp phần chấm dứt vĩnh viễn chiến tranh leo thang của không lực Hoa Kỳ ra miền bắc Việt Nam. Hà Nội cùng quân dân cả nước tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thu non sông về một mối. Suốt dặm dài của lịch sử đấu tranh  bảo vệ non sông, bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc; nhiều thế hệ sinh sống trên mảnh đất này đã cùng đồng bào cả nước hy sinh máu xương, quên đi niềm thương nỗi nhớ, quên đi hạnh phúc cá nhân để bảo vệ nền độc lập của dân tộc nói chung, bảo vệ Thăng Long Hà Nội - trái tim của cả nước nói riêng, mãi mãi trường tồn cùng đất nước. Cũng tại mảnh đất có "vượng khí đế vương muôn đời" này, kể từ 10/10/1954, ngày giải phóng Thủ đô khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp đến nay đã trở thành trung tâm quyền lực của nhà nước trong thời đại Hồ Chí Minh.

 Ngay trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Quốc hội khóa 1, kỳ họp thứ hai, tháng 10 năm 1946 đã, quyết định Hà Nội là Thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Kháng chiến chống đế quốc Mỹ thắng lợi, tháng 7 năm 1976, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI quyết định Hà Nội là Thủ đô của nước Việt Nam thống nhất. Hiến pháp 1992; Nghị quyết 15-NQ/TƯ ngày 15/12/2000 của Bộ Chính trị một lần nữa đã khẳng định Hà Nội là Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; là trái tim của cả nước, đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và  ngoại giao của cả nước. Thăng Long Hà Nội ở vào thời đại Hồ Chí Minh đâu còn giới hạn bởi ba vòng thành, đâu chỉ vỏn vẹn có "36 phố phường", đâu chỉ là "thành phố trong sông", mà sau nhiều lần thay đổi địa giới hành chính, Thăng Long xưa Hà Nội nay, đã  không ngừng phát triển về mọi mặt: không gian mở rộng hơn, dân số đông đúc hơn; kinh tế - văn hóa - xã hội...đều khởi sắc. Không những thế Thăng Long - Hà Nội còn được thế giới tôn vinh là "Thành phố vì hòa bình"! Là Thủ đô của "lương tri và phẩm giá con người"!

Việc định vị kinh đô Thăng Long, của nhà vua có tầm nhìn "thiên niên kỷ"- Lý Công Uẩn, là nền tảng để muôn đời con Lạc cháu Hồng xây dựng và phát triển thành Thăng Long - Hà Nội hôm nay. Đó là sự thật lịch sử sống động minh chứng cho vị trí đắc địa của vùng đất thiêng này. Ngày 1tháng 8 vừa qua, Hoàng thành Thăng Long - linh hồn của Thăng Long xưa đã được Ủy ban di sản thế giới của UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới bởi "chiều dài lịch sử văn hóa, tính liên tục của di sản với tư cách là một trung tâm quyền lực, và các tầng di tích di vật đa dạng, phong phú".


RỒNG VIỆT NAM




https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgASi5cLahEfy0_EucEIuhIIKTwFQf469jTbrBRTJfk4mUG3dYuZx5vs7qbxR08tV2jTdf8-LcSUrk0pT0zfDhcFMfwZDxU_Z1uYyzaQ29ITGn-p4FU57ggXPJ0dg-UQOgTAx-mDu_ca0I/s1600/%C4%91%E1%BB%91i+tho%E1%BA%A1i+m%E1%BB%99t+m%E1%BA%ABu+th%E1%BB%A9c+khoan+dung+7.jpg

Mùa xuân Canh Tuất (1010) tại kinh đô Hoa Lư, triều thần suy tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế thay thế nhà Tiền Lê. Tháng 7, vua hạ chiếu dời đô về thành Đại La với lý do: "... xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương. Đúng là Thượng đô kinh sư truyền mãi muôn đời...".
http://media.goonline.vn/edu/image/e-tap-chi/uploads/201012/5cf49a61-acc1-431b-962b-734f1074138e_Rong%20nha%20le.jpg

Khi thuyền ngự về đến bến sông dưới thành Đại La thì rồng vàng bay lên mừng đón. Điềm lành xuất hiện, dân chúng tung hô, lòng vua vô cùng hoan hỷ tin tưởng việc làm đã thuận lòng người, hợp ý Trời. Nên chọn hai chữ "Thăng Long" (Rồng bay) đặt tên kinh đô mới, mở đầu vận hội hưng thịnh, thái bình của đất nước Đại Việt.
Rồng vốn được người Việt tôn thờ làm vật tổ để bảo hộ giống nòi, làm cho gió hòa mưa thuận, mùa màng tốt tươi. Đạo Phật xem Rồng là một trong tám bộ chúng hộ trì Tam bảo. Do đó vào thời đầu tiên xây dựng kinh đô Thăng Long, đề tài "Rồng bay" là nguồn cảm hứng để nghệ nhân sáng tác chạm khắc, trang trí chùa tháp, cung điện cùng với các biểu tượng Phật giáo khác cho phù hợp tư tưởng "dân tộc, đạo pháp" của triều Lý. Các triều đại kế tiếp, hình tượng Rồng thay đổi dần theo tư tưởng Nho giáo.


THỜI LÝ (1010-1225)


Đầu ngẩng cao, miệng há rộng đớp viên ngọc quý để lộ hai hàm răng nhọn. Răng nanh dài tỳ vào mũi như cái mào. Bờm và râu dài uốn lượn bay về phía đuôi. Thân dài như rắn, trên lưng có vây, dưới bụng có vảy ngang, uốn khúc thành nhiều đoạn từ lớn đến nhỏ dần, rất mềm mại, sinh động. Có bốn chân xòe ra ba móng.
Đồ án "Rồng bay" thiêng liêng suốt triều Lý không thay đổi. Hiện nay chỉ phát hiện được rồng Lý chạm khắc trên đá, đất nung dùng để trang trí, kiến trúc, không thấy xuất hiện trên các loại đồ gốm như chén, bát, thạp, chậu... phục vụ nhu cầu sinh hoạt.

Con rồng đời Lý nguyên bản trên cột đá chùa Dạm





Nếu có dịp tìm xem lại những điêu khắc hay vẽ rồng của Thăng Long (Hà Nội), Phật tích và Dạm (Bắc Ninh), Chương Sơn (Nam Ðịnh) và Long Đọi (Hà Nam) hay Quỳnh Lâm (Quảng Ninh), ta sẽ nhận ra rằng cho dù thể hiện dưới hình dạng nào thì con rồng thời này đều có chung một kiểu dáng. Người ta gọi đó là con "rồng giun", có đầy đủ chi tiết của đầu và chân, đôi khi lại có vẩy và dài cả mét.
http://tusach-img.thuvienkhoahoc.com/images/N%E1%BA%AFp_h%E1%BB%99p_men_xanh_l%E1%BB%A5c_th%E1%BB%9Di_L%C3%BD2.jpg

Nắp hộp men xanh lục thời Lý

Photobucket
Đầu ngói ống men lục hình rồng thời Lý
Rồng thời Lý có thân hình tròn lẳn, dài, không có vảy, các khúc uốn đều đặn, thoăn thoắt, nhịp nhàng, toàn thân thon dài vút nhọn về đuôi, do vậy còn gọi là rồng giun hay rắn. Đặc điểm đầu rồng thời kỳ này thường ngẩng cao, miệng há to, không có mũi mà chỉ có vòi dài uốn lượn mềm mại, kết hợp với một nanh dài uốn lượn vươn lên trên có khi vờn ôm lấy ngọc. Tai bờm dài gần như bờm ngựa. Những chi tiết này thể hiện sự mềm mại, uyển chuyển tạo thành một tổng thể hài hòa trong từng đường nét.

http://baotanglichsu.vn/uploads/anh%20tin%20tuc/Bia-da-chan-de-tao-rong.gif
Bia đá tạo rồng ổ- đặc trưng thời Lý dưới chân núi Ngô Xá

Ngoài ra, qua những chi tiết nhỏ như mào lửa, cái mào cao quý là hy vọng về sự ấm no cho thần dân, đồng thời thể hiện sức mạnh, sự uy nghiêm và quyền uy tối thượng của vương triều nhà Lý.


THỜI TRẦN (1225-1413)

Sau nhà Lý là nhà Trần. Nhà Trần đã tiếp thu mọi thành tựu về văn hóa, xã hội thời nhà Lý và rồng biểu tượng cho nhà vua cũng vậy, nhưng có sự khác biệt nhất định. Nhà Trần thay nhà Lý, nhưng không gây nên những xáo trộn xã hội nặng nề. Đạo Phật vẫn được tôn trọng phát triển, làm hệ tư tưởng chính của thời đại. Tuy nhiên "Rồng Trần", theo lời dạy của Phật hoàng Trần Nhân Tông: "Nhà ta vốn là người vùng sông nước, đời đời ưa chuộng tính hùng dũng, thường xăm hình rồng vào đùi. Nếp nhà theo nghề võ, nên xăm hình rồng vào đùi để không quên gốc".

Do đó Rồng võ Trần ở giữa lưng võng xuống như yên ngựa, ít uốn khúc. Nanh, râu, bờm, chân đều ngắn hơn Rồng Lý, đầu mọc thêm sừng. Tạo dáng mập mạp, chắc khỏe chứ không uyển chuyển, sinh động như Rồng văn Lý. Biểu tượng Rồng đã phổ biến nên nghệ nhân sáng tạo ra nhiều kiểu dáng phong phú phục vụ cho nhu cầu xây dựng các công trình kiến trúc đình chùa nhân gian.


Từ nửa cuối thế kỷ XIV, con rồng đã rời khỏi kiến trúc cung đình để có mặt trong các kiến trúc dân dã, không những chỉ có trên điêu khắc đá và gốm, mà còn xuất hiện trên điêu khắc gỗ ở chùa. Rồng cũng không chỉ có ở các vị trí trang nghiêm mà rồng còn có mặt ở các bậc thềm (như ở chùa Phổ Minh).


Thân rồng thời Trần vẫn giữ dáng dấp như thời Lý, với các đường cong tròn nối nhau, các khúc trước lớn, các khúc sau nhỏ dần và kết thúc như đuôi rắn. Vẩy lưng vẫn thể hiện từng chiếc, nhưng không tựa đầu vào nhau như rồng thời Lý. Có khi vảy lưng có dạng hình răng cưa lớn, nhọn, đôi khi từng chiếc vẩy được chia thành hai tầng. Chân rồng thường ngắn hơn, những túm lông ở khủy chân không bay ra theo một chiều nhất định như rồng thời Lý mà lại bay lên phía trước hay phía sau tùy thuộc vào khoảng trống trên bức phù điêu. Và có sự xuất hiện chi tiết cặp sừng và đôi tay

Rồng   thời Trần
Đầu rồng không có nhiều phức tạp như rồng thời Lý. Rồng vẫn có vòi hình lá, vươn lên trên nhưng không uốn nhiều khúc. Chiếc răng nanh phía trước khá lớn, vắt qua sóng vòi. Miệng rồng há to nhưng nhiều khi không đớp quả cầu.
http://img840.imageshack.us/img840/8461/dsc00697i.jpg
Rồng thời Trần lượn khá thoải mái với động tác dứt khoát, mạnh mẽ. Thân rồng thường mập chắc, tư thế vươn về phía trước. Cách thể hiện rồng không chịu những quy định khắc khe như thời Lý.

Gạch trang trí thời Trần

Photobucket
Rồng trang trí trên ngói úp nóc thời Trần
Photobucket
Rồng trang trí trên ngói úp nóc men lục thời Trần

Photobucket
Đầu rồng thời Trần
Hình ảnh rồng chầu mặt trời sớm nhất là trong lòng tháp Phổ Minh ( Nam Định) có niên đại khoảng 1305 -1310. Đôi rồng ở đây được bố trí trong một ô tròn, chạy ngược chiều kim đồng hồ, đầu ngoái lại chầu một vòng tròn nhỏ ở giữa. Thể hiện mặt trời dưới dạng một vòng tròn đơn giản.

Rồng thời Trần không còn những khúc uốn lượn đều đặn, thoăn thoắt nữa mà thay vào đó là những khúc mau, khúc thưa. Đầu rồng với những chi tiết rõ ràng và khúc triết, uy nghi và đường bệ. Đầu rồng đơn giản nhưng không mất đi cái thần thái và vẻ uy nghi riêng của triều đại Trần. Điểm đáng chú ý cho thấy sự khác biệt rõ của thời Trần là phần đầu rồng xuất hiện cặp sừng thể hiện sức mạnh quyền uy. Sự khúc triết, mạnh mẽ, cứng cáp hài hòa với sự thoải mái là hiện thân của một vương triều vững mạnh về chính trị, kinh tế, xã hội.



THỜI LÊ SƠ (1428-1527)

Đến thời Lê, rồng có sự thay đổi hẳn, rồng không nhất thiết là một con vật mình dài uốn lượn đều đặn nữa mà ở trong nhiều tư thế khác nhau. Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc mũi to. Mép trên của miệng rồng vẫn kéo dài nhưng được vuốt gần như thẳng ra, bao quanh có một hàng vải răng cưa kết lại như hình chiếc lá. Răng nanh cũng được kéo dài lên phía trên và uốn xoăn thừng ở gốc.

http://haiphong.gov.vn/PortalFolders/ImageUploads/DULICH/1010/hoang%20thanh/tl%20doi%20rong.jpgĐôi rồng đá thời Lê dài 5,3m, 9 khúc trong thế trườn xuống
từ thềm điện Kính Thiên, được tạc năm 1467


Lông mày vẫn giữ hình dáng biểu tượng ômêga, nhưng được kéo dài ra và đuôi vuốt chếch lên phía sau. Trên lông mày và chiếc sừng hai chạc, đầu sừng cuộn tròn lại. Rồng có râu ngắn và một chân trước thường đưa lên đỡ râu, tư thế thướng thấy ở các con rồng đời sau. Cổ rồng thường nhỏ hơn thân, một hiện tượng ít thấy ở những con rồng trước đó. Như vậy rồng mang dạng thú xuất hiện cuối đời Trần đã thấy phổ biến ở đời Lê Sơ nhưng vẫn còn mang dáng dấp truyền thống của loài rắn.


Đầu thời Lê, vẫn còn giữ truyền thống Lý – Trần.
Sự tiếp biến giữa thời Lý và Trần không có nhiều sự thay đổi về hình tượng rồng nhưng đến thời nhà Lê lại có sự khác biệt. Về cơ bản, hình tượng rồng vẫn có những điểm giống nhau qua các thời, về chi tiết có thể mỗi thời có sự thay đổi.
http://tusach-img.thuvienkhoahoc.com/images/%C4%90%C4%A9a_hoa_lam_th%E1%BB%9Di_L%C3%AA_S%C6%A1.jpg

Đĩa hoa lam thời Lê Sơ

Photobucket
Rồng thời Lê không thấy cái đẹp về tỉ lệ, phần đầu rồng thể hiện rõ ràng với cái bờm lớn, mượt, mềm mại hơn. Các khúc uốn của rồng được vặn vỏ đỗ. Ngoài ra, mũi rồng to và không còn mào lửa, cặp sừng và mắt to, bờm lớn, những cụm lông mọc tủa ra chứ không thon dài vuốt nhọn về đuôi như thời trước... Nhìn vào các chi tiết này thấy ngay được sự dữ tợn, bộc lộ phong cách khỏe mạnh. So với rồng nhà Lý, Trần, rồng nhà Lê có sự thay đổi mang tính độc tôn, bởi từ tổng thể đầu, thân, đuôi rồng đều được thể hiện bằng những đường nét sắc nhọn, mạnh mẽ.

Photobucket
Gạch ốp tường trang trí rồng thời Lê


THỜI MẠC (1527-1593)
Rồng Mạc trở về với truyền thống Rồng Việt thời Lý Trần, có thân mình tròn trịa, uốn khúc uyển chuyển. Thường đi chung với các đề tài Phật giáo thể hiện trên các vật phẩm phục vụ thờ cúng tại đình chùa. Tuy triều đại không được lâu dài nhưng để lại dấu ấn Rồng độc đáo trong kho tàng di sản dân tộc.


Lư hương có hình rồng, thời Mạc

Nếu rồng ở thời Lý, Trần, Lê (thế kỷ XI - XV) thường là rồng đơn hoặc rồng đôi, tư thế chung nghiêm túc, đường bệ, thì từ thời Mạc rồng trên bia đá vẫn đỉnh đạc, nhưng rồng trang trí trên gỗ ở các đình làng thường là rồng đàn, rồng ổ, nó hòa đồng với nhiều con thú bình dị khác. Thậm chí có cả hình ảnh con gái ngồi cởi trên lưng hoặc lên đầu. Có sách sử cho rằng đây là dấu hiệu bắt đầu suy tàn của thời kỳ phong kiến khi mà hình ảnh rồng (vua) đã không còn được nghiêm trang uy nghi nữa.

Photobucket
Gạch ốp tường trang trí rồng thời Mạc

THỜI LÊ TRỊNH (1533-1789)

Rồng "Thăng Long" đến thời này xuất hiện trên đồ sứ ký kiểu tại Cảnh Đức trấn, Trung Quốc để phục vụ nhu cầu trang trí, sinh hoạt của vua Lê, chúa Trịnh.


Bát sứ ký kiểu có hình rồng, thời Lê-Trịnh

Đồ án Rồng thời này được tỉa tót bờm, râu, vi, vảy rất tinh tế, sống động. Mặt Rồng toát lên thần thái uy nghiêm, cao quý tột đỉnh. Quanh thân có mây lành (tường vân - tản vân) lan tỏa, phần cuối là đuôi xòe khác hẳn rồng Trung Quốc cùng thời. Nghệ nhân cung đình Lê - Trịnh sáng tác kiểu mẫu tuyệt đẹp nhưng cũng nhờ ký kiểu gặp thời thịnh trị Khang Hy - Ung Chính - Càn Long nên mới chế tạo sản phẩm đồ sứ men "tam lam" tươi sáng như ngọc nổi bật trên nền sứ trắng tinh tuyệt vời như thế.

Một thoáng Rồng bay ngàn năm trôi qua! Cầu mong thiên niên kỷ mới, Rồng thiêng lại xuất hiện để bảo vệ giống nòi giữ vững non sông, phục hưng hào khí Đại Việt, xứng đáng huyền sử con Rồng cháu Tiên.
http://www.giacngo.vn/UserImages/2010/06/22/5/imageview_aspx_thumbnailid_425027.jpg
Rồng Lân Khánh Xuân Thị Tả - thời Lê Trịnh



THỜI LÊ TRUNG HƯNG
Sau thời nhà Mạc, Thăng Long bước vào triều Lê Trung Hưng với vua Lê chúa Trịnh cùng song song. Những con rồng thời Lê Trung Hưng cũng không còn oai hùng mạnh mẽ dữ tợn như thời Lê Sơ nữa.

Chỉ nhìn con rồng đá thôi, đôi khi cũng có thể cảm nhận được cả về triều đại đã tạo ra nó.
Con rồng phía sau điện Kính Thiên


Con rồng trong Văn Miếu

Chín bậc đá thềm điện Kính Thiên đời Lê, trải hơn năm trăm năm biến đổi...
(So với thềm điện Thái Hoà ở Huế sau này, bậc thềm này đẹp hơn rất nhiều. Thăng Long cũng không sử dụng những tên gọi rập khuôn bắt chước y sì Trung Quốc kiểu Ngọ môn, Ngũ Phụng, Thái Hoà như triều Nguyến dùng ở Huế)


Con rồng đầu đời Lê đầy sức mạnh, hùng dũng oai hùng,
thể hiện khí phách của một thuở Bình Ngô !
(Chòm râu dưới cằm rồng được chân trước nắm chặt, nay đã bị vỡ mất)

Phía sau đầu rồng vẫn là lớp bờm dài uốn sóng giống triều Lý, Trần, Hồ, chân cuộn cơ bắp, sừng dài uy lực. Những con rồng đẹp mạnh mẽ thế này về sau không còn nữa. Rồng đời sau mang đầy vẻ tròn trịa hiền hoà, và càng ngày càng giống rồng Trung Quốc. Đặc biệt rồng đời Nguyễn thì y hệt rồng Tàu, không còn mang được dáng vẻ nào riêng cả.

Photobucket
Tượng linh thú, thời Lê (thế kỷ 17-18)


THỜI NGUYỄN (1802-1945)
http://www.hue.vnn.vn/dataimages/200909/original/images99051_aovua.jpg

Đóng
Con rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy nghi tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng. Rồng được thể hiện ở nhiều tư thế, ẩn mình trong đám mây, hoặc ngậm chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời, chầu hoa cúc, chầu chữ thọ... Phần lớn mình rồng không dài ngoằn mà uốn lượn vài lần với độ cong lớn. Đầu rồng to, sừng giống sừng hươu chĩa ngược ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi sư tử, miệng há lộ răng nanh. Vậy trên lưng rồng có tia, phân bố dài ngắn đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ dưới mắt chìa ra cân xứng hai bên. Hình tượng rồng dùng cho vua có năm móng, còn lại là bốn móng.
Rồng thời Nguyễn có sự thay đổi mang hơi hướng của rồng Trung Hoa. Đuôi rồng thể hiện sự cầu kỳ với những hình xoáy của cụm lông là sự khác biệt lớn nhất. Toàn thân rồng vẫn toát lên vẻ uy nghi tượng trưng với cái đầu to, cặp sừng giống như sừng hươu, cặp mắt to, lồi, mũi giống mũi sư tử tạo nên vẻ bề ngoài dữ tợn, thể hiện sức mạnh vương quyền, sự tôn nghiêm chốn tâm linh với vị thế đứng đầu trong nhóm tứ linh
"Cửu long tranh châu" trên chén nước cúng Pháp lam Huế- Minh Mạng:
phaplam4.JPG

phaplam3.JPG

phalam1.JPG

Chậu quán tẩy- pháp lam Huế vẽ 3 rồng 5 móng








Rồng trên hũ pháp lam thời Minh Mạng:




Rồng mặt quỷ trên dĩa pháp lam:



Bốn con rồng 5 móng trên dĩa Thiệu Trị vẽ cả trong&ngoài:







http://img341.imageshack.us/img341/9858/img1992x.jpg
Hổ phù hoa văn thời Nguyễnhttp://vnexpress.net/Files/Subject/3b/a2/62/20/giam-22.jpg

Am rồng thời Nguyễn
Ngày nay, hình tượng rồng tuy không còn mang tính chất thiêng liêng, tối thượng nhưng vẫn được đưa vào trang trí cho các công trình kiến trúc, hội họa, chạm, khắc nghệ thuật... Dù ở bất cứ thời điểm nào, rồng vẫn là một phần trong cuộc sống văn hóa của người Việt.
 
Photo Sharing and Video Hosting at Photobucket